1. Sự khác biệt về nhận thức và tâm lí tạo nên những xung đột giữa con cái và cha mẹ
1.1. Sự khác biệt trong cách nhìn nhận về hình thức bề ngoài của con cái
Ở lứa tuổi dậy thì (như chúng ta hiện nay), học sinh bắt đầu có ý thức và chú ý đến vóc dáng và hình thức của mình về chiều cao, cân nặng, nước da… Học sinh có thể đứng trước gương hàng giờ để tự ngắm mình với tâm lí vừa thích thú, vừa lo âu với những dự định của mình về cách để tóc, mua sắm quần áo, cách tạo dáng, đi đứng… để chứng tỏ mình đã trưởng thành, là người model, hiện đại nhằm tạo nên sự chú ý với mọi người nhất là bạn khác giới. Hình thức bề ngoài là một yếu tố khá quan trọng ở lứa tuổi vị thành niên, vì thế học sinh thường có những phản ứng “không muốn chấp nhận” những yêu cầu của cha mẹ trong việc để kiểu tóc, mua sắm quần áo, cách trang điểm… như cha mẹ thường làm khi chúng ta còn ở tuổi thơ ấu. Trong khi đó cha mẹ vẫn giữ quan niệm cũ nên đôi khi không theo kịp với nhận thức của con về các mốt mới trong thời hiện đại. Cha mẹ vẫn nghĩ: “con còn nhỏ, cha mẹ cho gì mặc nấy không được đòi hỏi”, vì vậy cha mẹ thực sự bất ngờ có khi “bị sốc” về cuộc “cách mạng” trong trang phục, quần áo… hình thức bề ngoài của con. Một mặt, con cái không muốn phụ thuộc về hình thức bề ngoài của mình theo ý cha mẹ, mặt khác cha mẹ không đồng tình với sự thay đổi của con thậm chí còn trách móc, chê bai con cái. Sự khác biệt này đã dẫn đến xung đột khó hòa hợp trong quan niệm về hình thức bề ngoài của người con.
1.2. Sự khác biệt trong nhận thức về vấn đề học tập của con
Khi bước vào trường THCS học sinh đã có mức độ trưởng thành đáng kể trong hoạt động học tập. Chúng ta đã có thể phân biệt được những kiến thức “cần thiết” và kiến thức “không cần thiết”, vì vậy đã có ý thức hình thành những ý định nghề nghiệp trong tương lai. Giai đoạn này chúng ta đã biết dành thời gian tập trung vào đọc sách báo, tập san … , tập trung học nhiều các môn mà mình cho là quan trọng. Trong khi đó khái niệm về việc lựa chọn nghề nghiệp chưa rõ ràng, việc lựa chọn nghề nghiệp chủ yếu là theo cảm tính, có bạn thích chạy theo bạn bè và tâm lí đám đông nên thiếu tính thiết thực, đôi khi không phù hợp với năng lực và điều kiện của mình. Về phía cha mẹ lại quan niệm: Việc học là công việc được ưu tiên số một nên cha mẹ quan tâm và tạo mọi điều kiện để đạt mục đích của mình. Cha mẹ có trách nhiệm chọn nghề nghiệp cho con theo sự từng trải, với suy nghĩ, tính toán của mình mặc dù không phù hợp với khả năng, sở thích của con.. Nếu con không nghe lời, không theo yêu cầu trên con cái sẽ bị ép buộc hoặc chịu sự trách phạt. Từ đó dẫn đến những xung đột về học tập và lựa chon nghề nghiệp giữa cha mẹ và con cái.
1.3. Nhận thức về quan hệ bạn bè của con
Ở tuổi dậy thì, khi cơ thể đã phát triển thì tâm lí cũng có nhiều thay đổi. Học sinh ham hiểu biết khám phá, thích mở rộng quan hệ kết bạn với những bạn bè cùng trang lứa được dựa trên nền tảng “đạo đức bình đẳng”. Giao tiếp với bạn bè là cần thiết đem lại sự thỏa mãn về nhu cầu giao tiếp giúp chúng ta phát triển nhân cách. Các hoạt động kết bạn, đi chơi, mời bạn đến nhà, kết bạn khác giới đã đánh dấu sự phát triển và hình thành đạo đức xã hội không thể thiếu.
Về phía cha mẹ, nền tảng của quan hệ người lớn là “đạo đức vâng lời”, quan niệm về cách chọn bạn, nhất là quan hệ với bạn bè khác giới là những vấn đề “cấm kỵ” đối với con. Đôi khi cha mẹ cho là những hành vi không phù hợp với quy tắc sống của trẻ em. Sự xung đột về quan hệ bạn bè chính là mâu thuẫn giữa nền tảng “đạo đức bình đẳng” của con và “đạo đức vâng lời” của cha mẹ. Cha mẹ muốn con kết bạn theo tiêu chuẩn của cha mẹ, trong khi đó con lại không chịu từ bỏ những bạn bè theo tiêu chuẩn của mình.
1.4. Xung đột về sở thích, hứng thú của con
Sở thích hứng thú ở tuổi vị thành niên là một nhu cầu có khuynh hướng phát triển mạnh. Chúng ta say mê tìm hiểu, khám phá các loại hình: sách báo, tập san, âm nhạc, thể thao, thời trang, phim ảnh, điện tử… Nhu cầu này giúp học sinh nâng cao nhận thức, hứng thú và tự tìm thấy năng khiếu của mình, bước đầu tiếp xúc và trải nghiệm với đời sống của người lớn. Sự hiểu biết, khám phá, sự yêu thích một loại hình nào đó cũng là một giá trị để phấn đấu. Tuy nhiên, vì khả năng tự kiềm chế chưa tốt, khi say sưa quá nên không điều chỉnh được thời gian, không biết dành thời gian cho học tập và các công việc khác một cách phù hợp.
Ngược lại, trong nhận thức của cha mẹ, học tập vẫn là nhiệm vụ hàng đầu của con. Việc con dành nhiều thời gian vào những sở thích, hứng thú khác đã đi ngược lại quan niệm của cha mẹ. Thế là cha mẹ tìm mọi cách đưa con vào “nề nếp” bằng cách nhắc nhở, giám sát, kiểm tra, đôi khi còn la mắng và áp dụng những hình phạt.
Về tâm lí, tuổi vị thành niên có xu hướng che giấu những bí mật riêng tư (viết nhật ký, viết thư, trao đổi tình cảm…), chúng ta cảm thấy xấu hổ khi người khác vô tình phát hiện, khám phá ra vì bản thân rất coi trọng quyền riêng tư của mình. Bên cạnh đó, cha mẹ chưa ý thức được nhu cầu độc lập của con trong lĩnh vực này và yêu cầu con không được giấu diếm cha mẹ bất cứ điều gì. Cha mẹ có quyền được biết tất cả những gì xảy ra với con và được tự do can thiệp vào công việc của con. Sự khác biệt trong nhận thức này đã làm cho quan hệ giữa cha mẹ và con cái trở nên nặng nề, căng thẳng.
1.5 Nhận thức về việc sử dụng thời gian và sử dụng tiền của con
– Việc sử dụng thời gian:
Thời thơ ấu cha mẹ thường dạy bảo con cái tuân thủ những quy định, khuôn phép sinh hoạt của gia đình. Thời gian (ăn, ngủ, vui chơi, học tập…) do cha mẹ quy định. Cha mẹ hy vọng khi con đã lớn, có nhận thức thì chúng ta sẽ thực hiện tốt hơn nề nếp sinh hoạt của gia đình đã được giáo dục từ nhỏ. Nhưng đến tuổi dậy thì tình hình sẽ ngược lại. Cha mẹ thấy thất vọng và hụt hẫng vì chúng ta bắt đầu làm ngược lại những điều cha mẹ mong muốn (cha mẹ thấy con chậm chạp lề mề hơn…). Học sinh ý thức được quyền của mình về nhu cầu riêng tư, ví dụ: dành thời gian để tự khám phá bản thân như soi gương, chải tóc, viết nhật ký, gọi điện thoại, đi chơi với bạn bè, dự sinh nhật… Đến lúc này những quy định cứng nhắc của cha mẹ từ khi còn nhỏ trở nên gò bó, mệt mỏi. Học sinh không muốn thực hiện những quy định của cha mẹ về giờ giấc nữa. Nhiều khi do cha mẹ thúc ép về thời gian đã xuất hiện tình trạng không nghe lời, đôi khi vô lễ với cha mẹ. Từ đó những xung đột có cơ hội bùng phát.
– Việc sử dụng tiền :
Khi con còn nhỏ, ít có nhu cầu sử dụng tiền, con chấp nhận phụ thuộc hoàn toàn vào cha mẹ về chi tiêu, mua sắm, khi cần cái gì các em đều xin cha mẹ. Đến tuổi dậy thì nhu cầu sử dụng tiền cao hơn. Học sinh cần một khoản tiền riêng và muốn được sử dụng tự do vào những việc: Chơi điện tử, xem phim, mua truyện, uống nước hoặc chiêu đãi bạn bè… Trong khi đó cha mẹ chưa hiểu hết nhu cầu cần thiết của con nên có cách ứng xử chủ yếu theo những khuynh hướng sau:
+ Khuynh hướng thứ nhất: cha mẹ rất khắt khe về việc cho con tiền và kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ việc chi tiêu của con vì sợ con cầm tiền nhiều, tự do chi tiêu không đúng mục đích thì sẽ hư hỏng. Nỗi lo này rất chính đáng nhưng nếu khắt khe quá con không đủ số tiền tối thiểu để sinh hoạt hay tham gia giải trí sẽ dẫn đến tình trạng xung đột giữa cha mẹ và con cái, lúc ấy con sẽ tìm mọi cách để có tiền (đi làm thêm, thậm chí lấy tiền của cha mẹ hoặc của người khác ..) từ đó phát sinh những tính xấu mà trước đây không có.
+ Khuynh hướng thứ hai: đối với những gia đình khá giả, cha mẹ quá nuông chiều con, sẵn sàng đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của con về tiền bạc, thái độ này dẫn đến tình trạng, người con không biết quý trọng đồng tiền và sức lao động của cha mẹ và người khác, chi tiêu phung phí vào những chuyện giải trí, vui chơi không lành mạnh, cờ bạc, nghiện ngập… những chuyện không thể chấp nhận với lứa tuổi vị thành niên dẫn đến hư hỏng. Như vậy, cha mẹ đã vô tình làm hại con mình mà không hay biết. Khuynh hướng này thường gây ra những bi kịch cho gia đình.