Câu hỏi
1. Khái niệm
Câu hỏi là một trong các công cụ khá phổ biến được dùng trong KTĐG. Câu hỏi có thể được sử dụng trong kiểm tra hỏi – đáp (vấn đáp, kiểm tra miệng), kiểm tra viết dưới dạng: tự luận, trắc nghiệm, bảng hỏi ngắn, thẻ kiểm tra, bảng KWL…Trong mục này, xin giới thiệu công cụ câu hỏi trong kiểm tra vấn đáp và kiểm tra viết với các dạng bảng hỏi ngắn, thẻ kiểm tra, bảng KWL.
a) Câu hỏi vấn đáp là cách thức GV tổ chức hỏi và đáp giữa GV và HS, qua đó thu được thông tin về kết quả học tập của HS, được sử dụng sau khi học một hay nhiều bài, một hay nhiều chương hay toàn bộ môn học. Kiểm tra bằng câu hỏi vấn đáp có thể sử dụng ở mọi thời điểm trong tiết học cũng như trong khi thi cuối học kì hoặc cuối năm học, HS cần trình bày diễn đạt bằng ngôn ngữ nói.
b) Bảng hỏi ngắn (với những câu hỏi mở hoặc đóng) hoặc một bài trắc nghiệm đơn giản là dạng bảng hỏi để kiểm tra kiến thức nền của HS, trong đó yêu cầu HS hoàn thành trước khi bắt đầu một môn học hoặc một bài học mới.
c) Thẻ kiểm tra là các câu hỏi ngắn GV đưa ra cho HS nhằm đánh giá kiến thức của HS trước, trong và sau mỗi bài học hoặc sau mỗi chủ đề học tập.
d) Bảng KWL là một công cụ nhằm yêu cầu HS bắt đầu bài học/chủ đề bằng việc động não tất cả những gì các em đã biết, muốn biết, biết được về chủ đề bài học và khuyến khích HS tìm tòi nghiên cứu bài học.
2. Mục đích sử dụng
Với việc sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau, GV có thể gợi mở, củng cố, tổng kết, kiểm tra kiến thức, kĩ năng, thái độ của HS trong quá trình dạy học.
Thông qua hỏi – đáp, GV có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với HS, nhờ đó có thể đánh giá được thái độ của HS, mặt khác, bằng những câu hỏi đa dạng, GV không chỉ thu thập được thông tin về hiểu biết của người học theo tiêu chuẩn chung mà còn có thể phát hiện ra những năng lực đặc biệt hoặc những khó khăn, thiếu sót của từng cá nhân HS. Tuy nhiên, với số lượng câu hỏi rất ít nên khó bao quát toàn bộ chương trình môn học, việc đánh giá bị ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan, HS được hỏi những câu hỏi khác nhau với thời lượng, ở điều kiện không như nhau, do đó ảnh hưởng đến tính khách quan. Câu hỏi vấn đáp được sử dụng chủ yếu để kiểm tra kiến thức của HS, thường tốn nhiều thời gian để tiến hành.
Bảng hỏi ngắn kiểm tra kiến thức nền không chỉ giúp GV có được thông tin về những kiến thức HS đã chuẩn bị cho môn học/bài học mà còn giúp xác định được điểm bắt đầu hiệu quả nhất của một môn học/bài học mới phù hợp với từng đối tượng. Bên cạnh đó, kết quả thu được từ bảng hỏi ngắn kiểm tra kiến thức nền sẽ giúp HS hệ thống lại những kiến thức cơ bản đã tích luỹ được liên quan đến môn học/bài học mới.
Thẻ kiểm tra nhằm đánh giá kiến thức của HS trước, trong và sau mỗi bài học hoặc sau mỗi chủ đề học tập.
Bảng KWL nhằm giúp GV tìm hiểu kiến thức có sẵn của HS về bài đọc, đặt ra mục tiêu cho hoạt động đọc, giúp HS tự giám sát quá trình đọc hiểu của các em, cho phép HS đánh giá quá trình đọc hiểu của các em, tạo cơ hội cho HS diễn tả ý tưởng của các em vượt ra ngoài khuôn khổ bài đọc.
Cách sử dụng câu hỏi
a. Cách sử dụng câu hỏi vấn đáp
Câu hỏi vấn đáp được sử dụng trong quá trình dạy học để KTĐG kiến thức, kĩ năng, thái độ của HS trên lớp học.
(a1) Yêu cầu xây dựng câu hỏi
– Câu hỏi chính xác thể hiện trong hình thức rõ ràng đơn giản;
– Câu hỏi chính xác rõ ràng giúp HS hình thành được câu trả lời đúng, nếu câu hỏi đa nghĩa, phức tạp sẽ gây khó khăn cho sự tư duy của HS;
– Câu hỏi xây dựng theo hệ thống lôgíc chặt chẽ. Để xây dựng hệ thống câu hỏi theo yêu cầu này, cần căn cứ vào cấu trúc nội dung bài học;
– Hệ thống câu hỏi được thiết kế theo qui luật nhận thức và khả năng nhận thức của đối tượng cụ thể:
+ Xây dựng câu hỏi từ dễ đến khó;
+ Từ cụ thể đến khái quát, từ khái quát đến cụ thể;
+ Câu hỏi từ tái tạo đến sáng tạo;
+ Số lượng câu hỏi vừa phải, sử dụng câu hỏi tập trung vào nội dung “phải biết” trong bài học (trọng tâm bài học).
+ Sử dụng các 6 loại câu hỏi, xếp thứ tự từ thấp đến cao theo thang đánh giá của Bloom:
Câu hỏi “BIẾT”
– Mục tiêu: Câu hỏi “biết” nhằm kiểm tra trí nhớ của HS về các dữ kiện, số liệu, tên người hoặc địa phương, các định nghĩa, định luật, qui tắc, khái niệm…
– Tác dụng đối với HS: Giúp HS ôn lại được những gì đã biết, đã trải qua.
– Cách thức sử dụng: Khi hình thành câu hỏi GV có thể sử dụng các từ, cụm từ sau đây: Ai…? Cái gì…? Ở đâu…? Thế nào…? Khi nào…? Hãy định nghĩa…; Hãy mô tả…; Hãy kể lại…
Câu hỏi “HIỂU”
– Mục tiêu: Câu hỏi “hiểu” nhằm kiểm tra HS cách liên hệ, kết nối các dữ kiện, số liệu, các đặc điểm… khi tiếp nhận thông tin.
– Tác dụng đối với HS:
+ Giúp HS có khả năng nêu ra được những yếu tố cơ bản trong bài học.
+ Biết cách so sánh các yếu tố, các sự kiện… trong bài học.
– Cách thức sử dụng: Khi hình thành câu hỏi, GV có thể sử dụng các cụm từ sau đây: Hãy so sánh…; Hãy liên hệ…; Vì sao…? Giải thích…?
Câu hỏi “ÁP DỤNG”
– Mục tiêu: Câu hỏi “áp dụng” nhằm kiểm tra khả năng áp dụng những thông tin đã thu được (các dữ kiện, số liệu, các đặc điểm…) vào tình huống mới.
– Tác dụng đối với HS:
+ Giúp HS hiểu được nội dung kiến thức, các khái niệm, định luật.
+ Biết cách lựa chọn phương pháp để giải quyết vấn đề trong nghề nghiệp và cuộc sống.
– Cách thức sử dụng:
+ Khi dạy học, GV cần tạo ra các tình huống mới, các bài tập, các vấn đề giúp HS vận dụng các kiến thức đã học.
+ GV có thể đưa ra nhiều câu trả lời khác để HS lựa chọn một câu trả lời đúng. Chính việc so sánh các lời giải khác nhau là một quá trình tích cực.
Câu hỏi “PHÂN TÍCH”
– Mục tiêu: Câu hỏi “phân tích” nhằm kiểm tra khả năng phân tích nội dung vấn đề, từ đó tìm ra mối liên hệ, hoặc chứng minh luận điểm, hoặc đi đến kết luận.
– Tác dụng đối với HS: Giúp HS suy nghĩ, có khả năng tìm ra được các mối quan hệ trong hiện tượng, sự kiện, tự diễn giải hoặc đưa ra kết luận riêng, do đó phát triển được tư duy lôgic.
– Cách thức sử dụng:
+ Câu hỏi phân tích thường đòi hỏi HS phải trả lời: Tại sao? (khi giải thích nguyên nhân). Em có nhận xét gì? (khi đi đến kết luận). Em có thể luận cứ như thế nào? (khi chứng minh luận điểm).
+ Câu hỏi phân tích thường có nhiều lời giải.
Câu hỏi “TỔNG HỢP”
– Mục tiêu: Câu hỏi “tổng hợp” nhằm kiểm tra khả năng của HS có thể đưa ra dự đoán, cách giải quyết vấn đề, các câu trả lời hoặc đề xuất có tính sáng tạo.
– Tác dụng đối với HS: Kích thích sự sáng tạo của HS, hướng các em tìm ra nhân tố mới…
– Cách thức sử dụng:
+ GV cần tạo ra những tình huống phức tạp, những câu hỏi có vấn đề, khiến HS phải suy đoán, có thể tự do đưa ra những lời giải mang tính sáng tạo riêng của mình.
Ví dụ: Thế nào là dạy học tích cực? Làm thế nào thực hiện được dạy học tích cực?
+ Câu hỏi tổng hợp đòi hỏi phải có nhiều thời gian chuẩn bị.
Câu hỏi “ĐÁNH GIÁ”
– Mục tiêu: Câu hỏi “đánh giá” nhằm kiểm tra khả năng đóng góp ý kiến, sự phán đoán của HS trong việc nhận định, đánh giá các ý tưởng, sự kiện, hiện tượng,… dựa trên các tiêu chí đã đưa ra.
– Tác dụng đối với HS: Thúc đẩy sự tìm tòi tri thức, sự xác định giá trị của HS.
– Cách thức sử dụng: GV có thể tham khảo một số gợi ý sau để xây dựng các câu hỏi đánh giá: Hiệu quả vận dụng dạy học tích cực như¬ thế nào? Triển khai dạy học tích cực đó có thành công không trong thực tiễn dạy học? Theo em trong số các giả thuyết nêu ra, giả thuyết nào là hợp lí nhất và tại sao?
+ Theo mức khái quát của các vấn đề có: Câu hỏi khái quát; câu hỏi theo chủ đề bài học; câu hỏi theo nội dung bài học.
+ Theo mức độ tham gia của hoạt động nhận thức của HS có: Câu hỏi tái hiện và câu hỏi sáng tạo.
(a2) Những yêu cầu khi đặt câu hỏi
- Câu hỏi được đưa ra một cách rõ ràng;
- Câu hỏi hướng tới cả lớp;
- Chỉ định một HS trả lời, cả lớp lắng nghe và phân tích câu trả lời;
- GV có kết luận.
(a3) Những yêu cầu khi GV nhận xét bằng lời nói câu trả lời của HS
Nhận xét tích cực bằng lời nói có tác dụng điều chỉnh hành vi. Các kết quả nghiên cứu cho thấy những đánh giá dưới dạng nhận xét tích cực bằng lời của GV, của bạn cùng lớp về một sản phẩm học tập nào đó… có tác dụng nuôi dưỡng những suy nghĩ tích cực, hình thành sự tự tin ở HS. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó giúp HS tự “cài đặt” lại suy nghĩ/niềm tin tích cực cho chính mình. Ví dụ: để đánh giá một sản phẩm học tập (một bức tranh, một bài thơ, một vài văn…), GV yêu cầu một HS hãy nói những lời nhận xét của cá nhân… GV gợi ý, định hướng để HS nói ra những nhận xét bằng lời mang tính xây dựng, tập trung vào những điểm tích cực hơn là những điểm chưa tích cực. Một ví dụ khác; một HS bước vào lớp đóng cửa rất mạnh “đánh rầm”… GV thay vì nhận xét: “em không có ý thức…”, “không đóng cửa mạnh như vậy”… hãy nói: “em đóng cửa nhẹ hơn có được không?” hoặc “em làm vậy, cái cửa nó đau lắm đấy”…
HS có xu hướng tự điều chỉnh hành vi theo sự kì vọng của GV. Những HS không được tôn trọng, kì vọng cao thường có xu hướng suy nghĩ bi quan, tiêu cực và dẫn đến buông xuôi; ngược lại những HS được tôn trọng, kì vọng cao… có xu hướng suy nghĩ lạc quan, tích cực sẽ đạt được những thành công. Điều này phụ thuộc vào những lời nhận xét mang tính xây dựng, thể hiện sự tin tưởng, kì vọng của GV để giúp HS tạo dựng niềm tin, đồng thời giúp các em tự điều chỉnh hành vi theo sự kì vọng của GV. Ví dụ nhận xét về khả năng làm việc hợp tác trong nhóm của một HS như sau : Em đã thực hiện tốt phần việc của cá nhân. Em nên tham gia thêm những việc chung của nhóm như: viết báo cáo kết quả, hoặc thay mặt nhóm trình bày kết quả.
b. Yêu cầu sử dụng bảng hỏi ngắn kiểm tra kiến thức nền
Chuẩn bị 2, 3 câu hỏi mở (yêu cầu câu trả lời ngắn gọn), hoặc 10 – 12 câu hỏi nhiều lựa chọn để kiểm tra kiến thức của HS về các khái niệm, vấn đề liên quan đến nội dung sẽ học.
Viết các câu hỏi lên bảng hoặc lên giấy để phát cho HS, hướng dẫn HS cách trả lời và thông báo cho HS biết kết quả của bài kiểm tra không ảnh hưởng tới kết quả học tập môn học mà nhằm mục đích giúp GV và HS xây dựng được kế hoạch dạy – học hiệu quả.
Ngay sau giờ học thông báo lại cho HS kết quả của bài kiểm tra và rút ra nhận xét, kết luận về kết quả của bài đánh giá, giúp HS xác định được những công việc cần phải chuẩn bị để học bài mới.
Bài kiểm tra kiến thức nền không mang tính chất thách đố hoặc thi cử.
Cân nhắc trong việc sử dụng từ ngữ, cách diễn đạt vì đôi khi HS có thể hiểu một khái niệm nào đó nhưng không quen với thuật ngữ được sử dụng trong bài kiểm tra, có thể ảnh hưởng tới kết quả đánh giá.
Trên cơ sở kết quả của bài kiểm tra kiến thức nền, GV có thể có phương án cấu trúc lại chương trình, nội dung môn học/bài học cho phù hợp.
Tránh những định kiến về điểm mạnh và điểm yếu của một HS nào đó thông qua kết quả của bài kiểm tra kiến thức nền.
c. Cách sử dụng thẻ kiểm tra
Một hoạt động tương đối dễ kéo dài trong 3-5 phút nhằm kiểm tra kiến thức của HS trước, trong và sau một bài học hoặc một buổi học. HS được yêu trả lời 3 câu hỏi do GV đưa ra. Ví dụ khi kết thúc bài học/ giờ dạy GV yêu cầu HS trả lời 3 câu hỏi ngắn sau:
(1) Điều gì trong bài học hay giờ học này làm em thích nhất?
(2) Chỗ nào, phần nào hoặc điều gì trong bài học hay giờ học này làm em khó hiểu ? cần cô giải thích lại?
(3) Điều gì em đặc biệt quan tâm hay mong muốn được biết, nhưng thầy/cô trong bài học này chưa đề cập đến?
HS được GV yêu cầu viết nhanh câu trả lời vào thẻ hay phiếu kiểm tra. GV có thể đọc nhanh các câu trả lời sẽ biết được nhiều thông tin… rất bổ ích và lập kế hoạch cho việc điều chỉnh hoạt động giảng dạy đáp ứng nhu cầu HS.
d. Cách sử dụng bảng KWL
Chọn bài đọc: Công cụ này đặc biệt có hiệu quả với các bài đọc mang ý nghĩa gợi mở, tìm hiểu, giải thích
Tạo bảng KWL: GV vẽ một bảng lên bảng, ngoài ra, mỗi HS cũng có một mẫu bảng của các em..
- Cột K: Những gì HS đã biết
- Cột W: Những gì HS muốn biết
- Cột L: Những gì HS đã học được
Đề nghị HS động não nhanh và nêu ra các từ, cụm từ có liên quan đến chủ đề. Cả GV và HS cùng ghi nhận hoạt động này vào cột K. Hoạt động này kết thúc khi HS đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Tổ chức cho HS thảo luận về những gì các em đã ghi nhận.
(d1) Một số lưu ý tại cột K
Chuẩn bị những câu hỏi để giúp HS động não. Đôi khi để khởi động, HS cần nhiều hơn là chỉ đơn giản nói với các em: “Hãy nói những gì các em đã biết về…”
Khuyến khích HS giải thích. Điều này rất quan trọng vì đôi khi những điều các em nêu ra có thể là mơ hồ hoặc không bình thường.
Hỏi HS xem các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề. Cả GV và HS ghi nhận câu hỏi vào cột W. Hoạt động này kết thúc khi HS đã nêu ra tất cả các ý tưởng. Nếu HS trả lời bằng một câu phát biểu bình thường, hãy biến nó thành câu hỏi trước khi ghi nhận vào cột W.
(d2) Một số lưu ý tại cột W
Hỏi những câu hỏi tiếp nối và gợi mở. Nếu chỉ hỏi các em: “Các em muốn biết thêm điều gì về chủ đề này?” Đôi khi HS trả lời đơn giản “không biết”, vì các em chưa có ý tưởng. Hãy thử sử dụng một số câu hỏi sau:”Em nghĩ mình sẽ biết thêm được điều gì sau khi em đọc chủ đề này?”
Chọn một ý tưởng từ cột K và hỏi: “Em có muốn tìm hiểu thêm điều gì có liên quan đến ý tưởng này không?”
Chuẩn bị sẵn một số câu hỏi của riêng bạn để bổ sung vào cột W. Có thể bạn mong muốn HS tập trung vào những ý tưởng nào đó, trong khi các câu hỏi của HS lại không mấy liên quan đến ý tưởng chủ đạo của bài đọc. Chú ý là không được thêm quá nhiều câu hỏi của bạn. Thành phần chính trong cột W vẫn là những câu hỏi của HS.
Yêu cầu HS đọc và tự điền câu trả lời mà các em tìm được vào cột L. Trong quá trình đọc, HS cũng đồng thời tìm ra câu trả lời của các em và ghi nhận vào cột W.
HS có thể điền vào cột L trong khi đọc hoặc sau khi đã đọc xong.
(d3) Một số lưu ý tại cột L
– Ngoài việc bổ sung câu trả lời, khuyến khích HS ghi vào cột L những điều các em cảm thấy thích. Để phân biệt, có thể đề nghị các em đánh dấu những ý tưởng của các em. Ví dụ các em có thể đánh dấu tích vào những ý tưởng trả lời cho câu hỏi ở cột W, với các ý tưởng các em thích, có thể đánh dấu sao.
Đề nghị HS tìm kiếm từ các tài liệu khác để trả lời cho những câu hỏi ở cột W mà bài đọc không cung cấp câu trả lời. (Không phải tất cả các câu hỏi ở cột W đều được bài đọc trả lời hoàn chỉnh)
Thảo luận những thông tin được HS ghi nhận ở cột L
Khuyến khích HS nghiên cứu thêm về những câu hỏi mà các em đã nêu ở cột W nhưng chưa tìm được câu trả lời từ bài đọc.
Thiết kế các dạng câu hỏi trong dạy học môn GDTC
a) Các câu hỏi cho mục tiêu khai thác kiến thức:
– Câu hỏi để HS cùng xây dựng bài giảng: Các câu hỏi này thường đặt xen kẽ bài giảng, theo mạch phát triển của bài giảng để HS tự khai thác nội dung tiếp theo, thay vì thầy có thể giảng hoặc trình bày tất cả, như: yêu cầu HS tự rút ra kết luận, HS tự tìm ví dụ minh hoạ nội dung, HS lí giải một vấn đề đơn giản. Nếu có một hệ thống câu hỏi cho mục đích này thì đó là phương pháp dạy học đàm thoại gợi mở.
– Câu hỏi để HS thảo luận: Các câu hỏi này có thể coi là phương tiện để HS làm việc nhóm, yêu cầu HS đánh giá một qui trình làm việc, phân loại, so sánh.
– Câu hỏi để HS khám phá: Các câu hỏi này là những tình huống, yêu cầu HS trao đổi, khám phá trong một thời gian ngắn 2-3 phút. Câu hỏi khám phá (hay nhiệm vụ khám phá) cần chuẩn bị trước trong giáo án, có cấu trúc sao cho chứa đựng tình huống buộc HS phải cùng trao đổi ngắn để có lời giải.
b) Các câu hỏi dùng để kiểm tra kiến thức, kĩ năng:
Thông thường, những câu hỏi này dùng để kiểm tra bài cũ hoặc kiểm tra sự chuẩn bị bài của HS ở nhà (kiểm tra đầu giờ).
c) Câu hỏi là phương tiện giao tiếp chủ yếu giữa thầy và trò:
Trong dạy học tích cực, giao tiếp giữa thầy và trò tuy không có ý nghĩa về mặt nhận thức nhưng rất có ý nghĩa về phương diện phương pháp dạy học. Nó thể hiện sự quan tâm của thầy đến trò, sự bao quát lớp học trong suốt tiết học, đồng thời cũng là sự nhắc nhở, động viên HS học tập. Ví dụ:
– Em có hiểu thầy nói gì không?
– Hình như em có điều gì thắc mắc phải không?
d) Câu hỏi nhằm thu hút sự chú ý của HS vào bài học:
Dùng loại câu hỏi này chứng tỏ GV đã có nghệ thuật dạy học cao. Khi cần nhắc nhở để lôi kéo HS vào bài giảng (khi HS đã mệt mỏi, mất tập trung), thay vì dùng mệnh lệnh (hãy chú ý.., hãy trật tự..) thì GV đưa ra nhưng yêu cầu buộc HS phải chú ý tiến trình của bài giảng mới có thể hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ:
– Hãy nhắc lại nhận xét mà bạn…vừa phát biểu!
– Thầy muốn biết ý kiến của các em về câu chuyện mà thầy sẽ kể sau đây.
e) Câu hỏi KTĐG năng lực HS:
Trong dạy học GDTC cấp THPT, do điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học còn hạn chế nên khó thực hiện được trọn vẹn việc KTĐG năng lực HS. Để khắc phục hạn chế này, biện pháp khả thi là xây dựng các câu hỏi gắn với thực tiễn, câu hỏi yêu cầu HS vận dụng kiến thức, kĩ năng đề giải quyết vấn đề thực tiễn.
* Minh họa câu hỏi dùng trong kiểm tra, đánh giá trong dạy học môn GDTC theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.
Trong chương trình phổ thông 2018 môn GDTC THPT xác định yêu cầu cần đạt. Trong bảng liệt kê dưới đây, đối tượng mức độ cần đạt được chỉ dẫn bằng các động từ khác nhau. Do đó trong dạy học cần đặc biệt khi đặt câu hỏi giáo viên dùng những động từ trong bẳng dưới đây hoặc thay thế bằng những động từ có nghĩa tương đương cho phù hợp.
Bảng động từ mô tả mức độ nhận thức môn Giáo dục thể chất cấp THPT
Ví dụ với học sinh lớp 10 môn Bóng đá tự chọn,
Chủ đề: Kỹ thuật đá bóng bằng lòng bàn chân (môn Bóng đá tự chọn – lớp 10)
3. Sau khi nhóm của mình tập sút bóng cầu môn bằng kỹ thuật đá bóng bằng lòng bàn chân, hãy chọn 1 đến 2 bạn để nhận xét kết quả thực hiện.
4. Em hãy sửa cho bạn khi bạn tập sai kỹ thuật đá bóng bằng lòng bàn chân bóng không bay bổng (sử dụng lời nói hoặc thực hiện động tác đúng để bạn bắt chước)
5. Hãy tổ chức thi đua tập sút bóng cầu môn bằng kỹ thuật đá bóng bằng lòng bàn chân (5 bạn), yêu cầu phải đánh giá nhận xét được bạn nào đá tốt nhất. Vì sao?
– Những năng lực có thể hướng tới.
+ HS Sử dụng thuật ngữ khái niệm chuyên môn để nhận xét đánh giá;
+ Tham gia điều khiển nhóm thực hiện kỹ thuật đá bóng bằng lòng bàn chân và hoạt động tập luyện của nhóm, lớp;
+ Giải quyết vấn đề khi giữa các nhóm có sự ganh đua thứ hạng khi tổ chức thi đua trình diễn giữa các nhóm, tổ;
+ Sử dụng bài tập đá bóng bằng lòng bàn chân như một phương tiện để tự rèn luyện thân thể trong các giờ học Bóng đá.